BỆNH SỞI
Sởi là bệnh suy giảm miễn dịch cấp tính, lây truyền rất nhanh qua đường hô hấp. Người bệnh dễ bị lây nhiễm, bội nhiễm vi sinh, đặc biệt môi trường bệnh viện với nhiều vi khuẩn đa kháng thuốc gây viêm phổi nặng. Khi cơ thể suy giảm miễn dịch dễ bị đồng nhiễm vi rút khác. Cùng một lúc bị 2-3 vi rút tấn công một cơ thể bệnh đã suy sụp thì nguy cơ tử vong cao. Mọi đối tượng chưa có miễn dịch đều có thể bị sởi. Người lớn nếu chưa được tiêm chủng vẫn có thể bị mắc bệnh như trẻ em.
1. Nguyên nhân: Do virut sởi
2, Triệu chứng:
- Sốt : 38,5 0 C
- Nổi hạch: Hạch nổi trước phát ban
- Phát ban: Hình tròn hay bầu dục, mọc ở mặt, đầu, toàn thân, ( 24h mọc khắp người, sau 2 đến 3 ngày thì bay hết
- Đau khớp, đau khắp mình mẩy
2. Đường lây
- Lây qua đường hô hấp, tiếp xúc với dịch tiết mũi họng qua tay đưa vào đường mũi miệng.
- Bệnh lây trước hoặc sau phát ban 7 ngày.
- Cách ly 8-10 ngày (khi ban đã bay hết).
3. Biến chứng
Các biến chứng của bệnh sởi bao gồm:
- Viêm tai giữa cấp: đây là biến chứng thường gặp nhất.
- Viêm phổi nặng: Nguyên nhân thường do bội nhiễm các loại vi khuẩn khác, thời điểm xuất hiện biến chứng thường muộn sau khi phát ban. Các biểu hiện bao gồm: khó thở, thở nhanh, sốt cao, triệu chứng nhiễm trùng nặng, khi nghe phổi thấy ran nổ, công thức máu thấy bạch cầu tăng cao, trên phim X- quang thấy hình ảnh nốt mờ rải rác của viêm phổi.
- Viêm phổi nặng là biến chứng của bệnh sởi
- Viêm não - màng não: là biến chứng thần kinh quan trọng, có thể gây tử vong và để lại nhiều di chứng sau này. Biến chứng của bệnh sởi xuất hiện vào tuần đầu khi phát ban. Các biểu hiện bao gồm: sốt cao, co giật, các dấu thần kinh định vị như liệt nửa người, liệt dây thần kinh, rối loạn ý thức thậm chí hôn mê. Điều nguy hại là khi có biến chứng viêm não thì sau khi trẻ qua được cơn nguy hiểm tính mạng, cũng để lại nhiều di chứng nặng nề về thể chất và tinh thần về sau.
- Biến chứng tiêu hóa: viêm niêm mạc miệng, cam tẩu mã- tình trạng bội nhiễm xuất hiện muộn do một loại vi khuẩn hoại thư gây nên hoại tử niêm mạc miệng, xuất hiện tình trạng hơi thở có mùi hôi thối.., viêm ruột với biểu hiện tiêu chảy thường nặng nề hơn so với các tiêu chảy do virus khác.
- Biến chứng mắt - loét giác mạc: có thể gặp ở trẻ em bị suy dinh dưỡng, thiếu vitamin A, biến chứng này có thể để lại di chứng mù vĩnh viễn.
-Suy dinh dưỡng hậu sởi.
- Sảy thai, sinh non khi mắc sởi ở phụ nữ có thai.
4. Những đối tượng dễ bị biến chứng khi mắc sởi bao gồm:
-Trẻ em: tuổi càng nhỏ thì nguy cơ mắc biến chứng càng cao.
-Trẻ có tình trạng suy dinh dưỡng, suy giảm miễn dịch.
-Người sống trong môi trường đông dân cư.
-Thiếu vitamin A.
5. Cách chăm sóc cho bệnh nhân mắc sởi
-Bệnh sởi là bệnh truyền nhiễm gây ra bởi virus sởi. Đây là bệnh dễ lây qua đường hô hấp, tiếp xúc với dịch tiết của người bệnh. Do đó khi tiếp xúc với người bệnh cần đeo khẩu trang và vệ sinh tay đúng cách. Bệnh thường xảy ra ở trẻ nhỏ, đặc biệt là trẻ chưa được tiêm chủng hay tiêm ngừa không đủ số mũi vaccine, cũng có trường hợp tiêm ngừa đầy đủ nhưng không tạo được miễn dịch phù hợp.
-Người bệnh cần đeo khẩu trang và vệ sinh tay đúng cách
-Nguyên tắc chung: Có bốn nguyên tắc đó là:
-Thứ nhất điều trị chủ yếu là hỗ trợ các triệu chứng ho, sốt, sổ mũi, đỏ mắt và đau miệng.
-Thứ hai là cung cấp đầy đủ dinh dưỡng, không cần thiết phải kiêng cữ các loại thực phẩm cũng như kiêng cữ việc vệ sinh cá nhân.
-Thứ ba là bổ sung vitamin A, tùy vào độ tuổi mà lượng vitamin A được bổ sung sẽ khác nhau.
- Và cuối cùng, cần theo dõi các dấu hiệu nặng cần đến ngay cơ sở y tế kịp thời.
6. Phòng bệnh:
- Áp dụng các biện pháp dự phòng chung như đeo khẩu trang khi đến chỗ đông người hoặc bệnh viện.
- Cần thường xuyên rửa tay bằng các loại thuốc sát trùng nhất là khi vào môi trường bệnh viện.
- Giữ nhà cửa thông thoáng, sạch sẽ.
- Uống đầy đủ nước mỗi ngày (khoảng 1,5 - 2 lít mỗi ngày).
- Bổ sung các loại thực phẩm có nhiều Vitamin A như cà rốt, các loại rau xanh thẫm và các loại quả có màu vàng, màu da cam.
- Chủ động tiêm vắc xin phòng bệnh. Tiêm 1 mũi vắc xin sởi hiệu quả bảo vệ đạt 87%, tiêm 2 mũi hiệu quả đạt 95%.
Ninh Thành, ngày 12 tháng 5 năm 2019
NGƯỜI VIẾT BÀI
Hà Thị Diện